Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi Mầm Non
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi Mầm Non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi Mầm Non
MỤC LỤC I. PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1. Lý do chọn đề tài..............................2 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. .4 3. Đối tượng nghiên cứu5 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu...................5 5. Phương pháp nghiên cứu...5 II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận.5 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu...6 3. Nội dung và hình thức của giải pháp.7 a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.8 b. Nội dung và cách thức thực hiện.......................8 c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.. 17 d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 17 III. PHẦN KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ 1. Kết luận19 2. Kiến nghị......................19 1 và cho bản thân chủ thể tư duy. Ngược lại, nếu không có tư duy với các sản phẩm của nó thì ngôn ngữ chỉ là những âm thanh vô nghĩa. Ở trường Mầm non, ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui chơi, giao tiếp với bạn bè, cô giáo. Ngôn ngữ được tích hợp trong tất cả các loại hình hoạt động giáo dục, ở mọi lúc, mọi nơi. Như vậy, ngôn ngữ cần cho tất cả các hoạt động và ngược lại, mọi hoạt động tạo cơ hội cho ngôn ngữ trẻ được phát triển. Chính vì thế, chúng ta khẳng định rằng: “ Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em”. Trong chương trình chăm sóc - Giáo dục trẻ, cô giáo là người tổ chức cho trẻ tham gia mọi hoạt động để từ đó trẻ có cơ hội được tìm tòi, khám phá, trẻ được trải nghiêm, trẻ lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội, lịch sử. Đây là những điều kiện tốt nhất để ngôn ngữ trẻ phát triển một cách mạnh mẽ ngay từ tuổi ấu thơ. Muốn trẻ khỏe mạnh, phát triển hài hòa, cân đối cả về thể chất lần tâm hồn, đòi hỏi người lớn phải chú ý chăm lo, nuôi dưỡng, dạy dỗ trẻ ngay từ khi chúng cất tiếng khóc chào đời. Nếu trẻ được chăm sóc đầy đủ, hợp lý và dạy dỗ chu đáo, đúng đắn trẻ bao giờ cũng trở nên nhanh nhẹn, hồn nhiên, mạnh dạn và hoạt bát, trẻ dễ dàng hòa mình vào cộng đồng và thiết lập mối quan hệ với mọi người xung quanh. Tuy nhiên muốn làm được điều đó thì cô giáo phải có lòng kiên trì, có tình thương yêu đối với trẻ và luôn là tấm gương sáng, mẫu mực cho trẻ bắt chước làm theo. Để quá trình giáo dục mang lại hiệu quả cao thì cô giáo cần nghiên cứu, xác định xem cần dạy trẻ những gì và dạy trẻ như thế nào. Năm học 2019-2020, tôi được nhà trường phân công dạy lớp Cỏ non. Là một cô giáo trực tiếp dạy trẻ 24- 36 tháng tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua hoạt động làm quen với văn học và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp 3 - Xây dựng cơ sở lý luận và đưa ra một số biện pháp để tổ chức dạy trẻ phát triển ngôn ngữ 3. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu trẻ từ 24 – 36 tháng tuổi. 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi Mầm Non, được tiến hành nghiên cứu tại lớp “Cỏ non” - Trường mầm non Hoa Hướng Dương - Phường Thiện An - Thị xã Buôn Hồ. 5. Phương pháp nghiên cứu: Xem tài liệu. Khảo sát thực trạng. Xử lý kết quả. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận: Để tiến hành một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ ở trường Mầm non đạt kết quả cao. Chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của hoạt động này đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Đối với trẻ em, sự phát triển ngôn ngữ được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn tiền ngôn ngữ ( Dưới 12 tháng) và giai đoạn ngôn ngữ ( Từ 12 tháng tuổi trở lên). Ngôn ngữ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy, hình thành và phát triển nhân cách; là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ Mầm Non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà mọi người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó. 5 Tổng số trẻ khảo sát là: 20 trẻ trong đó nữ 9, nam 11 BẢNG KHẢO SÁT THỰC TRẠNG NỘI DUNG Số trẻ đạt TỶ LỆ ĐẠT Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm 8 40 % Vốn từ 5 25 % Khả năng nói đúng ngữ pháp 8 40 % Khả năng giao tiếp 7 35% Qua kết quả khảo sát trên, tôi thấy kết quả các cháu bị lỗi về ngôn ngữ chiếm tỷ lệ tương đối cao. Hoạt động phát triển ngôn ngữ có vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển toàn diên nhân cách trẻ. Nó có giá trị quyết định trong việc phát triển trí tuệ, đạo đức, thẫm mỹ, thể lực và các mối quan hệ xã hội của trẻ từ những năm đầu cho trẻ. Là giáo viên mầm non, trực tiếp đứng lớp giảng dạy các cháu. Hàng ngày tôi được gần gũi, tiếp xúc với các cháu, tôi luôn mong muốn mình làm được những gì tốt đẹp nhất giành cho các cháu. Nhưng trên thực tế, ở trường Mầm non, việc tổ chức các hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngoài một số kết quả đã đạt được vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều yếu tố bất cập. Về không gian cho trẻ hoạt động: Diện tích phòng học chật hẹp, sĩ số cháu đông, do đó trong quá trình trẻ tham gia hoạt động không được thoải mái. Trong quá trình tổ chức các hoạt động, mỗi cô giáo có một cách riêng để truyền thụ kiến thức cho trẻ. Về đồ dùng đồ chơi: Đa số là đồ chơi cô giáo tự làm, nên mới chỉ ở mức đạt yêu cầu mà thôi. Đối với trẻ: Do đặc điểm phát triển tâm sinh lý của mỗi trẻ khác nhau, cháu thì nhanh nhẹn, hoạt bát, thông minh; cháu thì trầm lặng, ít nói nên quá trình cung cấp từ mới, củng cố những từ trẻ đã biết hoặc cô truyền thụ một số kiến thức khác cho trẻ cũng khác nhau. Bên cạnh đó có một số trẻ ngôn ngữ phát triển còn chậm, một số từ, câu phát âm chưa rõ ràng và thiếu chính xác, trẻ có thói quen phát âm theo tiếng địa phương. Chính vì những lẽ đó mà tôi muốn dựa vào đây để nghiên cứu, tìm ra giải pháp, biện pháp phù hợp áp dụng vào công tác giảng dạy để giúp các cháu phát triển ngôn ngữ đạt kết quả tốt ở trường Mầm non. 3. Nội dung và hình thức giải pháp 7 ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. VD: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Gia đình con có những ai? + Trong gia đình ai yêu con nhất? + Mẹ yêu con như thế nào? + Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì? - Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. - Ngoài ra trong giờ đón trẻ , trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà , bố , mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. 2- Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc: Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau. VD1: Trò chơi trong góc “Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. + Bác đã cho búp bê ăn chưa? (Chưa ạ) + Khi ăn bác nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé! ( Vâng ạ) + Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé! + Bột vẫn còn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã ! (Giả vờ thổi cho nguội) Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của con người 9 + Con gì vậy? ( Con chim) + Con chim kêu như thế nào? ( Chích chích.) * Giáo dục: Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! ( Vâng ạ) - Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. - Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại. Biện pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác. 1.Thông qua giờ thơ, truyện: Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện. Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo : + Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ. + Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi. + Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật. VD1: Trẻ nghe câu truyện “ Đôi bạn nhỏ” . Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó là từ “ Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “ Bới đất”. Các con ạ, bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình, khi kiếm được thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy. Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học: + Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu? ( Đi kiếm ăn ạ) 11 ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời. + Trẻ hay nói ô tô - ô chô. + Trẻ nói Thỏ ngoan - Thỏ ngan + Bác Gấu _ Bác ấu + Con Cáo _ Con áo - Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo. - Thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên , khích lệ trẻ kịp thời. - Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “ Thỏ ngoan” + Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn. + Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu. + Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở. - Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức . Biện pháp 3: Một số trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ Đối với trẻ nhà trẻ , được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụng” số vốn từ ”đó một cách thành thạo. Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái. Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú. 13 + úi chà! úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp. Rửa tay. ( Nhún vai 2 lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một cái rồi chỉ vào chóp mũi. Sau đó xoa 2 tay vào nhau vờ rửa tay) - Tuỳ theo sự hứng thú của trẻ mà cho trẻ chơi 3- 4 lần. Khi trẻ chơi tôi nhận thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ bập bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình thành trọn vẹn hơn . *Trò chơi 3:” Trò chuyện về các PTGT quen thuộc ”. - Qua trò chơi này trẻ sẽ kể được một số phương tiện giao thông quen thuộc như : ô tô, xe đạp, xe máy, tàu hoả. * Chuẩn bị: + Mô hình các PTGT: ô tô, xe máy, xe đạp. + Tranh, ảnh các loại PTGT. + Đàn, đài có thu âm thanh tiếng kêu của các PTGT cho trẻ đoán * Tiến hành: Trong trò chơi này tuỳ thuộc vào thời gian rảnh rỗi tôi có thể cho trẻ chơi. Có thể là giờ đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi buổi chiềutôi có thể đàm thoại với trẻ về các loại PTGT mà trẻ biết như : + Hôm nay, ai đưa con đến trường? + Mẹ con đưa đến trường bằng PT gì? + Cô nào đón con vào lớp? + Hôm qua chủ nhật, bố mẹ con có đưa con đi đâu không? + Con đi với ai? + Con đi bằng PT gì? + Khi đi đường con nhìn thấy gì ? + Bạn nào đã được đi ô tô rồi + Ô tô kêu như thế nào ? + Khi ngồi trên ô tô phải như thế nào để đảm bảo ATGT? - Sau khi đặt những câu hỏi như vậy tôi khuyến khích trẻ kể tên những loại PTGT khác mà trẻ biết. 15 thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ. - Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ rất hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm , sửa ngọng. - Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp: Thời gian nghiên cứu và thử nghiệm được diễn ra cùng một lúc trong suốt quá trình thực hiện đề tài. d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: Sau khi tôi nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp tổ chức trên để giúp trẻ phát triển tốt ngôn ngữ. Kết quả của các cháu đạt được như sau: Tổng số trẻ nghiên cứu: 20 cháu NỘI DUNG Số trẻ đạt TỶ LỆ ĐẠT Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm 15 75% Vốn từ 12 60 % Khả năng nói đúng ngữ pháp 16 80% Khả năng giao tiếp 17 85% 17 Tuyệt đối cô giáo không được chê trẻ làm trẻ tự ti, chán nản không muốn tham gia các hoạt động giao tiếp. Bản thân cô giáo không ngừng học hỏi ở chị em, bạn bè đồng nghiệp, tham gia các lớp tập huấn chuyên đề. Để đúc rút kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Sưu tầm tài liệu, sách hướng dẫn về phương pháp, biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ dành cho giáo viên Mầm non. Để nghiên cứu tìm ra những ý tưởng hay, những biện pháp sáng tạo, làm giàu thêm vốn kiến thức cho bản thân đưa vào công tác giảng dạy các cháu. Cô giáo luôn trau dồi phẩm chất đạo đức tốt, luôn yêu nghề mến trẻ, cố gắng chăm sóc dạy dỗ các cháu thật tốt để cống hiến một phần nhỏ bé của mình trong sự nghiệp ươm mầm xanh tương lai của đất nước Đề tài của tôi lựa chọn để nghiên cứu hầu như đều sát với thực tế của trường Mầm non. Tôi mong muốn các bạn tham khảo và phần nào áp dụng vào trong thực tiễn công tác giảng dạy của mình. Đồng thời đóng góp ý kiến cho tôi để tôi rút kinh nghiệm hoàn thiện hơn trong công tác chăm sóc- Giáo dục trẻ cho những năm tiếp theo. 2. Kiến nghị: Kính mong ban lãnh đạo cấp trên quan tâm đến giáo viên mầm non mở nhiều chuyên đề về phát triển ngôn ngữ cho trẻ . Thiện An, ngày 18 tháng 3 năm 2020 Người thực hiện Đồng Thị Hiền 19 PHÒNG GIÁO DỤC THỊ Xà BUÔN HỒ TRƯỜNG MẦM NON HOA HƯỚNG DƯƠNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: Một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ dành cho trẻ 24- 36 tháng tuổi ở trường Mầm Non GIÁO VIÊN:ĐỒNG THỊ HIỀN NĂM HỌC: 2019 - 2020 21
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_phat_trien_n.doc